Kháng Cách Đức_tin_Kitô_giáo

Đức tin là sự Kiên định trong Niềm tin Hợp lý

Trong tác phẩm Mere Christianity, C. S. Lewis miêu tả trải nghiệm của ông về đức tin, phân biệt hai cách hiểu thuật từ này. Ông viết,

"Xem như đức tin được tín hữu Cơ Đốc sử dụng theo hai ý nghĩa hoặc với hai cấp độ… Trong ý nghĩa thứ nhất nó chỉ đơn giản là Niềm tin."[13]

Trong những đoạn sau, Lewis tiếp tục luận giải,

"Đức tin, trong ý nghĩa mà tôi sử dụng cho thuật từ này, là nghệ thuật bám chặt vào những điều lý trí chúng ta đã một lần chấp nhận, bất kể tâm trạng chúng ta thay đổi như thế nào."[13]

Đức tin liên quan đến Tri thức

Tri thức được xem là yếu tố nền tảng cho đức tin.[14] Dù vậy, cần có sự phân biệt trong khía cạnh này, đức tin bao hàm sự đồng tâm, đó là khi hành động của ý chí hiệp nhất với hành động của tri thức.

Luôn có sự tương quan giữa quan điểm về đức tin và sự hiểu biết về tính chất của sự mặc khải. Khi mặc khải được xem là truyền đạt thông tin thì đức tin được xem là chấp nhận tín lý trên lý trí. Đó là trường hợp của tư tưởng Kinh viện Kháng Cách.[15] Một khi đã có đức tin, nó sẽ giúp chúng ta suy luận và nhận biết nhiều bằng chứng hỗ trợ khác nhau.[16] Như thế, đức tin là một dạng tri thức; đức tin hoạt động phối hợp chứ không đối lập với lý trí.[17]

Đức tin là sự Ban cho từ Thiên Chúa

Bởi sự sa ngã và do sự tác động của quyền lực Satan, con người đánh mất khả năng nhận thức lời chứng của các sứ đồ về sự mặc khải của Thiên Chúa, họ không thể nhận biết hoặc thấu hiểu phúc âm để tiếp nhận Chúa Cơ Đốc,[18] cũng không chịu từ bỏ mình để tin cậy ân điển của ngài,[19] cho đến khi Chúa Thánh Linh soi sáng họ. Như thế, Thiên Chúa là đấng ban đức tin cho con người,[20] và chỉ những ai được "dạy dỗ", "kéo đến" và "xức dầu" thì mới có thể đến với Chúa Giê-su mà thôi.[21]

Đức tin được vận hành bởi Linh của Thiên Chúa

Nầy, lòng người kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng trong nó; song người công chính thì sống bởi đức tin mình.

Ha-ba-cúc 2: 4

Căn bản của đức tin là phải phù hợp với chân lý, sự đồng thuận của chúng ta đối với bất kỳ chân lý được mặc khải nào cũng phải dựa trên nền tảng tối hậu này, ấy là sự chân xác của Thiên Chúa. Đức tin lịch sử là sự lĩnh hội và đồng thuận với những dữ kiện lịch sử, trong khi đức tin hiện thời là sự tỉnh thức trong tâm trí con người được kích hoạt bởi sự giãi bày chân lý cũng như bởi những ảnh hưởng của tình cảm tôn giáo hoặc bởi sự vận hành của Chúa Thánh Linh. Cũng một thể ấy, đức tin dẫn đến sự cứu rỗi luôn luôn gắn kết với điều này, và được cảm động trong lòng người bởi Chúa Thánh Linh.

Sự chân thật của Thiên Chúa là bảo chứng của đức tin

Nền tảng của đức tin là lời chứng của Thiên Chúa, không phải là luận cứ về những điều Thiên Chúa phán bảo, mà chỉ đơn giản là Thiên Chúa phán như thế. Đức tin trực tiếp lập nền trên "Chúa phán như thế" (câu nói xác chứng thẩm quyền được lặp lại nhiều lần bởi các tiên tri trong Cựu Ước). Nhưng muốn đạt đến thẩm quyền ấy của đức tin, cần phải có sự sở hữu và sự thẩm định đầy đủ về tính chính xác, chân thật và chân lý của Thiên Chúa, cùng với một yếu tố quan trọng khác, cũng là một trong những thuộc tính của Thiên Chúa, ấy là Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.